Gió lạnh gò hoang - Phần 1

29/10/2019 14:53 505

Đã lâu rồi chưa xảy ra chuyện ghê gớm đến vậy. Và câu chuyện còn được nhắc lại rất lâu như để chứng minh thêm sự thâm u của vùng đất này.

Sâu trong đồng ruộng mênh mông, đất miền Tây cò bay thẳng cánh, lúc mạ mới lên thì xanh ngút ngát tầm mắt nhìn chẳng thấy đường chân trời. Đất ruộng nhiều, dân cư thì thưa thớt. Xóm nào đông nhất cũng chỉ có khoảng hai mươi nóc nhà. Người sống thì ít hơn người chết. Họ nằm rải rác khắp nơi, không mồ mả, lạnh lẽo trong đất những dìa xâm sấp nước, những gò hoang tối tối đầy đốm lửa, lửa ma trơi.

Cũng phải, vùng này từ xa xưa đã chiến tranh giặc giã, xương người lúc cày ruộng vẩn thường bật lên. Dân cũng làm ngơ, coi như là xương con này con kia, cho đỡ sợ. Ngay cả ông Mười lúc cùng nhân công móc đất đắp nền cũng moi được từng khúc, từng khúc xương vùi trong bùn lạnh. Thấy họ sợ, ông cười bảo là xương trâu. Tụi len trâu lùa cả bầy trăm con đi ngang qua, chết rùi bỏ xác luôn là chuyện thường, riết rồi đi đâu cũng gặp xương. Nói vậy, nhưng đợi họ về hết, ông cẩn thận gom lại bỏ vào một cái hủ sành, khi xong việc đắp nền thì hủ sành cũng gần đầy, ông mang qua nghĩa địa cạnh nhà đào hố chôn, đắp mô đất nhỏ, đặt bát hương, ông khấn vái:

- Tôi là người từ xứ khác đến đây cư ngụ. Nay vô tình động đến tiền nhân và các anh em nghĩa sĩ. Từ nay tôi sẽ hương khói nơi này, mong các bậc tiền nhân và hương hồn anh em phù hộ.

Ông nhìn xung quanh, vùng đất hoang vu này là nơi ông gắn bó quãng đời còn lại.

Chuyện về cái hủ xương ông không dám nói cho bà nghe vì bà vốn sợ ma. Cứ đến tối là bà ở miết trong nhà. Nhưng một hôm, đang giữa trưa nắng gắt thì bà Mười nghe tiếng người ồn ào huyên náo. Đang nằm ngủ trưa trên võng, bà bật dậy ngó ra. Hai người đàn ông đang khiên một người đàn ông nữa ngó xanh lè, bợt bạt, mềm nhũn vào. Còn người đàn bà bên cạnh thì vừa đi vừa khóc tức tưởi. Đang mắt nhắm mắt mở bà định thần lại một lúc mới nhận ra là người quen hết. Họ là người trong xóm, và người đàn bà kia là thím Thân, thường hay bán cá cho bà.

Lúc này ông Mười đã từ trong nhà bước ra. Quát hai người đàn ông khiên người bệnh lên phản rồi ông lao đến dùng chiếc đũa nạy miệng anh ta ra.

Nhanh lên giữ tay chân nó lại không nó cắn lưỡi. Bà vào nhà lấy cho tôi cái hũ màu xanh. Nhanh không chết người bây giờ.

Lúc này người bệnh co quắp tay chân. Mắt long lên trắng dã. Miệng xùi bọt mép. Răng nghiến kèn kẹt. Ngó chừng nguy kịch đến nơi. Ông Mười mồ hôi nhể nhại, dùng tay trái ấn huyệt trên trán, tay phải nhét chiếc đũa vào giữa hàm răng. Cầm cái hũ vợ đưa đổ vào miệng cái chất lỏng có mùi hăng hắc, đổ trào ra ngoài. Chừng một lát thân thể anh ta dần mềm lại, hơi thở đều hòa hơn ông mới rút chiếc đũa ra. Vuốt mồ hôi lên trán ông quát thím Thân:

- Mày còn ngồi đó mà khóc. Vô nhà kêu bả lấy thau nước ấm ra tao pha thuốc lau mình xoa bóp cho nó nè. Nó đã chết đâu mà khóc.

- Khỏe rồi hả chú Mười? Người đàn ông lực lưỡng có vết sẹo dài trên vai hỏi.

- Chưa đâu, chỉ qua cơn nguy hiểm thôi. Chưa chết là may, trể tý nữa là khỏi cứu. Mà sao để nó tới hồi này mới đưa tới?

Không đợi hai người trả lời, ông cầm cái khăn vợ đưa lau mặt rồi ngoắc :

- Hai đứa qua đây uống trà. Để vợ nó lo lau mình, xoa bóp cho nó. Bà phụ con nhỏ đi. Ông nói với vợ, lấy thuốc trong hũ pha nước ấm xoa ngực, lát tôi đưa vài thang thuốc về sắc.

Hai người đàn ông cầm chun trà uống một hơn cạn sạch. Nhìn họ có cái vẻ lực điền, công việc nặng nhọc và nắng mưa tôi luyện nên những người đàn ông vạm vỡ.

Còn tiếp...